Diễn Đàn Lớp 11B1 THPT Gò Vấp
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn Đàn Lớp 11B1 THPT Gò Vấp

† oOo ™®_B1_®™ oOo †
 
Trang ChínhTrang Chính  PortalPortal  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  

Share | 

 

 Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận EmptySat Mar 20, 2010 2:34 pm

nhox_eviL
nhox_eviL

60%

Nam
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Points Points : 5998
Birthday Birthday : 25/04/1993
Join date Join date : 13/03/2010
Đến từ Đến từ : HCM city

Bài gửiTiêu đề: Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận

cái này có thể sơ xài đối vs mý bạn khá văn nhưng mà hơi bị good cho những ai đang thiếu ý tưởng


I.Mở bài

Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Những rung cảm mãnh liệt và tinh tế của hồn thơ Huy Cận trước không gian trời rộng sông dài lúc chiều tà đã hoá thân thành bài thơ “Tràng giang” độc đáo – “một bài thơ đã đạt đến trình độ cổ điển của một hồn thơ mới”(Xuân Diệu). Bài thơ có một nhan đề và một lời để từ giàu ý nghĩa đồng thời bộc lộ những cảm nhận đặc biệt tinh tế trước thiên nhiên ngay từ khổ thơ đầu.

II.Thân bài

1)xuất xứ
“Tràng giang” là bài thơ đặc sắc nhất trong tập “Lửa thiêng” (1940) của Huy Cận. Đó là một bài thơ được sống Hồng gợi tứ, là những rung động của nhà thơ trước thiên nhiên sông nước bao la vô tận nơi bến phà, chèm trong buổi chiều tà.
2)Giải thích ý nghĩa nhan đề
Nhan đề của các tác phẩm văn học nhiều khi bao quát được những nội dung tư tưởng chủ đạo, những hình tượng nổi bật của nhà thơ. Huy Cận cũng đã chọn cho thi phẩm của mình một nhan đề rất thích đáng. “Tràng giang” cũng chính là ‘trường giang” có nghĩa là sông dài. Nhưng nhà thơ không viết “trường giang” mà viết “tràng giang” tạo nên phép điệp âm “ang”, một âm mở, và nhờ vậy còn gợi lên hình ảnh một con sông lớn, sông rộng. “Tràng giang” lại là một từ Hán Việt cổ điển nên cũng kín đáo gợi hình ảnh con sông cổ kính lâu đời ( dòng “tràng giang” vì vậy không chỉ có chiều dài rộng địa lí mà còn có chiều sâu của thời gian, của lịch sử. đó là con sông như đã chảy từ ngàn xưa, đã trầm tích vào trong mình chiều sâu của hàng nghìn năm lịch sử, hàng nghìn năm văn hoá, và dường như đã chảy qua bao áng cổ thi:
“Duy kiến Trường giang thiên tế lưu”
(Lý Bạch)
(Dòng tràng giang chảy ngang qua bầu trời)
(Con sông vì vậy trở nên dài hơn rộng hơn mênh mang hơn xa xôi vĩnh viễn hơn trong tâm tưởng của người đọc. Nhan đề “tràng giang” vì vậy đã gợi lên một hiện tượng không gian độc đáo, không gian lớn lao có tầm vũ trụ rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà thơ.
3ý nghĩa của nhan đề càng được tô đậm hơn qua lời đề từ của tác phẩm: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
Câu thơ được rút trong bài thơ “nhớ hờ’ từ tập lửa thiêng. Các hình ảnh “trời rộng sông dài” gợi những phạm vi không gian khác nhau từ cao đến thấp; xa đến gần một không gian lớn lao mênh mang có tầm vũ trụ. Hình tượng không gian này còn trở lại nhiều lần trong bài thơ “Sông dài trời rộng bến cô liêu”. Nếu ‘bâng khuâng” là cảm giác xao xuyến trống trải của con người khi đối diện trước không gian mênh mông rộng lớn thì “nhớ” lại là niềm hoài niệm của con người về điều gì đó đã khuất xa trong thời gian trong không gian. Cả dòng thơ đã bộc lộ thành thực nỗi niệm tâm trạng con người khi đối diện trước thời gian, không gian, bộc lộ nỗi khắc khoải không gian của hồn thơ Huy Cận : “Huy Cận dường như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian” (Xuân Diệu)
4)Bình giảng
“Tràng giang” mở ra bằng hiện tượng dòng sông mặt nước. Bản thân từ tràng giang đã gợi một không gian dài rộng mênh mông có phần cổ kính một không gian lớn lao mang tầm vũ trụ. Hình ảnh “sóng gợn Tràng giang “gợi sự vận động hết sức nhỏ bé nhẹ nhàng của sóng và vì vậy càng làm nổi bật cái mênh mang cái tĩnh lặng vô cùng của nền cảnh Tràng giang. Huy Cận đã khéo léo sử dụng thủ pháp dùng động nói tĩnh; dùng cái nhỏ bé diễn tả cái lớn lao vốn rất phổ biến trong thơ xưa. Dòng thơ đầu có khi được hiểu như một hình ảnh so sánh giữa cảnh “sóng gợn Tràng giang” triền miên vô hạn với nỗi buồn điệp điệp của lòng người. Nó kín đáo gợi nhớ một câu ca dao cổ:
“Qua cầu ngả nón trông cầu
Sóng bao nhiều gợn, dạ em sầu bấy nhiêu”
Nhưng có lẽ ở dòng thơ của Huy Cận bốn chữ đầu tả cảnh của mình trước sau tả tình nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi lòng của mình trước cảnh Tràng giang sóng gợn. Cặp từ láy “điệp điệp” vừa khiến nỗi buồn trở nên cụ thể hơn vừa làm cho nó như chồng chất lên nhau nối tiếp nhau không dứt. Nỗi buồn này chưa qua nỗi buồn khác đã vỗ về. Đó là một nỗi buồn triền miên vô hạn như chính sóng nước Tràng giang. Có thể nói ngay dòng thơ đầu Huy Cận đã trực tiếp bộc lộ nỗi lòng của mình khi đối diện trước cảnh vật, trước không gian.
Trên nền Tràng giang nổi bật lên hình ảnh con thuyền đơn độc lẻ loi. Hình ảnh con thuyền xuôi mái có khi được hiểu là con thuyền xuôi mái chèo mát mái lướt đi ung dung thanh thản trước Tràng giang. Nhưng có lẽ hiểu là hình ảnh con thuyền buông xuôi mái chèo bởi như thế sẽ hợp hơn với một dòng Tràng giang toàn những “củi trôi, bèo dạt” toàn những vận động vô hướng vô định. Có người hiểu “nước song song” là hình ảnh có ý nghĩa đối thanh đối ý với “buồn điệp điệp” ở dòng trên, có người lại cảm nhận đó là hai vệt nước vẽ ra từ đuôi con thuyền xuôi mái. Nhưng có lẽ cả dòng thơ này diễn tả thế song song sóng đôi hài hoà giữa thuyền và nước; diễn tả mối quan hệ vững bền muôn thuở của thiên nhiên.
Đến dòng thơ sau thế cân bằng mỏng manh giữa thuyền và nước: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. dòng thơ có khi được ngắt nhịp 2/5 và có khi được hiểu là mối sầu của nước khi thuyền về. Nhưng trong tương quan nội tại của lời thơ, cách ngắt nhịp 2/2/3 tỏ ra hợp lí hơn và “sầu trăm ngả” là mối sầu của lòng người. Lời thơ khéo léo sử dụng phép tiểu đối : “Thuyền về – nước lại” diễn tả sự chia ly giữa thuyền và nước. Hai động từ trái hướng: “về – lại” như đã xé thuyền và nước đã tồn tại rất mong manh, đã lùi vào quá khứ, “thuyền – nước” vốn là những thực thể không thể tách rời nhau nên sóng đôi thì hài hoà tách xa là có nỗi niềm mà chia ly là nghịch cảnh (Huy Cận đã đã cảm nhận sự chia ly giữa “thuyền – nước “ như một điều trái quy luật tự nhiên. Cách cảm nhận ấy như khiến cho nỗi buồn trở nên thấm thía sâu sắc hơn, và nỗi buồn ‘điệp điệp” ở trên đã trở thành mối sầu trăm ngả”. Huy Cận là người thường hiện thực hoá những tâm tư tình cảm của con người trong những phạm vi không gian. Mối sầu vốn vô hình không thể cảm nhận bằng mắt thường nhưng khi được đặt trong không gian “trăm ngả” bỗng trở nên cụ thể có tầm vóc lớn lao, cả mối sầu nơi lòng người cũng như đang lan toả khắp không gian, như cũng đang vỗ sóng trên mặt thế gian. Đó cũng là mối sầu vô hướng, vô định, là nỗi niềm của con người trước sông nước mênh mang.
Thơ là sự chọn lựa ngôn từ hết sức cầu kỳ hàm xúc. Bao nhiêu người cầm bút đã từng tâm niệm lời dạy của thi thánh Đỗ Phủ:
“Tự bất kinh nhân tử bất hưu”
(Một chữ mà chưa làm cho người ta kinh sợ thì chết chưa yên)
Trước khi đặt bút viết dòng thơ cuối Huy Cận đã trải qua nhiều trăn trở, tìm tòi. Ông từng thử bút bằng dòng thơ:
“Gỗ lại rừng xa cuộn xiết dòng”
rồi sửa bằng :”Củi một cành khô đã lạc dòng”
nhưng không có hình ảnh nào gợi tả bằng dòng thơ: “Củi một – dòng” hình ảnh “củi một cành khô” gợi cái đơn côi lẻ loi, khô héo nhỏ bé phù du, còn hình ảnh “mấy dòng” lại gợi một không gian lớn lao mênh mang trải ra nhiều hướng. Thủ pháp tương phản trong dòng thơ cùng với động từ “lạc” như muốn xé cành củi khô về nhiều hướng: “Cành củi” ấy trở nên vô cùng tội nghiệp nhỏ nhoi, qua những vận động vô hướng vô định của mình. Dòng thơ như kín đáo gợilên những liên tưởng về thân phận bèo bọt của con người giữa dòng đời vô tận. Lời thơ sử dụng rất nhiều thủ pháp tương phản một thủ pháp vốn rất đặc trưng cho cảm hứng lãng mạn. Thiên nhiên trong khổ thơ có vận động nhưng là vận động vào sự lưu lạc; chia lìa. Nó là một cảnh buồn vắng mà chỉ tâm hồn chất chứa mối sầu như Huy Cận mới có thể nhận ra.

III.Kết bài

Cả khổ thơ là những cảm nhận đặc biệt tinh tế trước thiên nhiên đầy những lưu lạc ; những vận động vô hướng vô định, những nỗi niềm những mối sầu vô hồi vô hạn như chính sóng Tràng giang. Huy Cận qua khổ thơ đó đã phác hoạ ra những cảnh đầu tiên cho bức tranh Tràng giang vừa cổ điển mẫu mực, vừa độc đáo mới mẻ của mình.

_________________

MỘT SỐ BÀI THAM KHẢO
Đây là bài viết đạt 9,5 môn văn của bạn Nguyễn Hồng Ngọc Lam trong kì thi Đại học cao đẳng 2007
Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp

....

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "anh" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.

Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.

Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.

Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.

Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

BÀI THAM KHẢO SỐ 2
Nếu phải kể đến những đôi bạn thơ gắn bó keo sơn, thân thiết với nhau thì trong nền thơ hiện đại Việt Nam, đáng nhắc đến trước tiên vẫn là bộ đôi Xuân Diệu – Huy Cận. Bộ đôi ấy đã hình thành nên một xóm thơ “ Huy – Xuân ” trong phong trào thơ mới. Nhưng điều đó không hề có nghĩa là hai hồn thơ đó giống nhau, mà là ngược lại. Như sau này có người nhận xét : “ Nếu Xuân Diệu là thi sĩ của niềm ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. “ Chính cảm hứng về vụ trụ bao la lớn rộng đã góp phần làm nên vẻ đẹp thơ Huy Cận, ngay từ thuở nhà thơ mới viết tập đầu tay – “ Lửa thiêng”. Và khi tìm hiểu một trong những bài tiêu biểu nhất của tập thơ, người ta chắc phải nói đến “Tràng giang”.
Trên ý nghĩa, “Tràng giang” là một con sông dài, nhưng Huy Cận lại muốn cảm nhận đó là một dòng sông rộng. Và như thế rõ ràng có lý, có căn cứ bởi cảm giác về dòng sông nếu không được làm nên bởi ấn tượng của thanh âm, bởi cả hai chữ của tựa đề -“tràng” và “giang” đều được cấu tạo bởi một nguyên âm rộng nhất trong các nguyên âm.
Bên ấn tượng về chiều rộng được nói đến ở tựa đề bài thơ thì ấn tượng ấy còn có ở cả câu đề từ :
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Chiều cao của bức tranh là khoảng cách giữa trời rộng với sông dài, làm nên đầy đủ, trọn vẹn ba chiều của không gian. Điều ấy rất sớm giới thiệu với người đọc về Huy Cận, một nhà thơ của cảm hứng không gian. Và trong không gian mênh mang ấy, nhà thơ đã thả vào một nỗi buồn nhớ nhẹ nhàng, man mác mà chúng ta có thể thấy được qua những từ “nhớ” và “bâng khuâng” mà nhà thơ đặt ngay ở đầu câu.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh rất thích hợp với thi đề - “sóng”. Sóng trên dải “tràng giang “ của Huy Cận không phải là sóng xô, sóng vỗ hay “ sóng vọt đến lưng trời ” như trong thơ Đỗ Phủ mà chỉ là “sóng gợn”. Một chuyển động nhẹ nhàng để gợi ra hình ảnh của một dòng tràng giang tĩnh lặng. Nhà thơ tìm ra cái tĩnh trong cái tưởng như rất động, thể hiện một hồn thơ hay thiên về cái tĩnh. Con sóng gợn trong con mắt đầy xúc động của thi nhân dường như cứ lan toả đến vô cùng. Vì vậy, ngay từ câu thơ đầu tiên, nhà thơ đã chứng tỏ mình đi theo một phong cách thơ khác nhiều lắm so với phong cách thơ cổ điển, đó là sự xuất hiện chữ “buồn” ngay ở đầu bài – “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn mang hình ảnh của sóng gợn, mượn hình ảnh của sóng để hiện ra trước con người. Như thế, “Tràng giang” rất sớm trở thành một dòng sông tâm trạng, vừa là hình ảnh của ngoại giới, lại vừa là hình ảnh của tâm giới.
Trên bức tranh sông nước ấy đã hiện lên hình ảnh một con thuyền, một con thuyền không chèo “xuôi mái”- hình ảnh tĩnh trên một dòng sông tĩnh. Mái chèo buông xuôi dọc bên thân thuyền, để lại hai vệt nước mà nhà thơ gọi là “song song”. Hai chữ này đã hoà ứng với hai chữ “điệp điệp” ở cuối câu thứ nhất như để gợi thêm ra cảm giác về một nỗi buồn vô tận. Bức tranh thiên nhiên mở ra theo cả hai chiều, “điệp điệp” gợi ra không gian theo chiều rộng, còn “song song” lại làm nên cảm giác về chiều dài.
Nhưng đến câu thơ thứ ba:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
thì hình ảnh nước và thuyền quay trở lại, nhưng không phải thuyền trôi trên dòng nước mà là “thuyền về, nước lại”. Mỗi sự vật đi kèm với một động từ, tạo nên cảm giác về sự chuyển động trái chiều. Ta cảm tưởng rằng thuyền về, con nước lại và một khoảng trống sẽ được mở ra, một khoảng trống về một mối sầu lan toả, không chỉ được mở ra trên hai chiều trái ngược nhau mà là mọi chiều trong không gian – “ sầu trăm ngả”. Nhà thơ viết “trăm ngả” dường như khiến người đọc cảm nhận mối sầu ấy không có chỗ tận cùng, và nỗi buồn lại càng mênh mang hơn nữa.
Tuy nhiên, không có câu thơ nào trong khổ này lại khiến Huy Cận phải trăn trở nhiều hơn, tâm đắc nhiều hơn là câu thơ thứ tư :
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Điều rất lạ là câu thơ tâm huyết này của Huy Cận lại bắt đầu bằng một chữ tưởng như không hàm chứa một lượng thơ ca nào, chữ “củi”. Chữ ấy lại được nhà thơ nhấn mạnh qua một phép đảo từ “ củi một cành khô ”. Nhưng phải là chữ “củi” và phải là phép đảo từ thì nhà thơ mới có thể nói ra tận cùng một quan niệm, một triết lý nhân sinh. Chữ ấy hay không chỉ vì nó đem lại cho thơ cái chất mà Xuân Diệu gọi là “hiện thực sống sít”, làm nên một trong những phong cách thơ mới. Hình ảnh “củi” không chỉ nói về một thanh gỗ đã chết mà còn thực sự toát lên vẻ tầm thường. Nhưng đó lại là hình ảnh khó có gì thích hợp hơn để nhà thơ biểu hiện cảm quan của mình về sự nhỏ nhoi, vô nghĩa, đơn côi của sự sống một kiếp người trước vũ trụ, thiên nhiên vô tận. Ý nghĩa ấy dường như thấm vào trong từng chữ một của dòng thơ. Chữ “một” gợi lên số ít, chữ “cành” làm nên cảm giác nhỏ bé. Và như thế, con người dường như đang lạc lối, bơ vơ , ngơ ngác trước những dòng nước của con sông lớn ở trong hiện thực, cũng là trước con sông của nỗi buồn ở lòng người. Nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, cô đơn của một kiếp người, khác hoàn toàn với nỗi buồn của Xuân Diệu trong “Đây mùa thu tới “.
Đến khổ thơ thứ hai thì không gian đã không còn chỉ giới hạn trong phạm vi một mặt sông.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức tranh “Tràng giang” giờ đây đã có thêm hình ảnh những chiếc “cồn” của những làng xóm ở bên sông. Vì thế hai câu thơ đầu phảng phất cảm giác man mác, nhẹ nhàng mà sâu kín về một quê hương. Huy Cận đã vô tình phác ra một cảnh sắc rất quen thuộc về một miền quê nước Việt : bờ sông hoặc giữa lòng sông có những cồn đất nhỏ, xa xa ven sông có những âm thanh xao xác của một xóm làng. Nhưng đó không phải là tất cả ý nghĩa của câu thơ. Không thể không chú ý rằng Huy Cận muốn những chiếc cồn trong thơ phải là “cồn nhỏ” và phải thưa thớt, lơ thơ. Cồn phải vậy để mặt sông càng trở nên rộng lớn. Gió thì “đìu hiu” càng làm cho dòng tràng giang thêm tĩnh lặng. Và Huy Cận cũng đã từng nói hai chữ “đìu hiu “ấy đã được mượn trong hai chữ của “Chinh phụ ngâm” :
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Một ngọn gió thổi đìu hiu ở nơi đã từng là bãi chiến trường đẫm máu, mối liên tưởng ấy làm ngọn gió trên sông của nhà thơ lại càng thêm buồn bã, hắt hiu.
Câu thơ thứ ba đã vẳng lên âm thanh của sự sống, nhưng âm thanh ấy cũng nhỏ nhoi, yếu ớt, cô quạnh.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Cảm giác ấy dường như thấm vào từng chữ một trong câu. Câu thơ làm gợi nhớ đến một “phiên chợ chiều” đã “vãn” của một “làng xa”. Cảm giác đến với nhà thơ và người đọc thơ thông qua một giác quan mơ hồ - thính giác, mà không phải qua hình ảnh. Sự mơ hồ ấy lại được nhân lên qua chữ “đâu” ở đầu câu, càng khiến cho âm thanh ấy như có như không, như hư như thực. Nhưng thực nhất vẫn chỉ là sự im lặng bao trùm lên dòng chảy tràng giang.
Đến câu thơ thứ ba thì không gian được mở ra theo một chiều khác, chiều cao qua hình ảnh của nắng và bầu trời :
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót.
Hai hình ảnh ấy cũng được đặt trong những chuyển động trái chiều – “lên” và “xuống”, trong cảm giác về một sự chia rẽ. Nắng xuống và trời lên, để lại một khoảng trống thăm thẳm mở ra, làm nên cảm giác mà Huy Cận đã diễn tả bằng một sự kết hợp từ độc đáo – “ sâu chót vót ”. Cụm từ này tạo cảm giác thăm thẳm về bầu trời và mặt nước. Không chỉ thế, phải có chữ “sâu” để không gian được nhuộm trong gam màu, gam cảm xúc buồn, trầm lắng.
Và khổ thơ thứ hai của bài thơ được khép lại trong một câu thơ gần nhất với câu đề từ khi ở đây lại xuất hiện hình ảnh của “sông dài, trời rộng”.
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Nhưng bên cạnh hình ảnh ấy, Huy Cận đã đặt bên cạnh một hình ảnh “bến cô liêu”. Bến ấy cũng đại diện cho con người, cho sự sống vì sông sẽ không có nơi nào là bến nếu không có sinh hoạt của con người nơi bến ấy. Vì vậy hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vụ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng.
Chúng ta bắt gặp một sự biến chuyển ở đầu khổ ba :
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình như có cái gì đông đúc hơn lên, sự chuyển động dường như cũng đã nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Chúng ta nhận ra điều ấy qua từ “dạt” ngay ở câu thơ đầu tiên. Cảm giác đông đúc cũng thể hiện khá rõ trong ba chữ “hàng nối hàng”. Nhưng sự đông đúc ở đây lại chỉ là của những cánh bèo, hình ảnh từ lâu đã tượng trưng cho những kiếp phù sinh, cho cuộc sống không ý nghĩa. Hình ảnh “bèo dạt” ấy cũng đã từ lâu dùng để nói về số phận của những kiếp người không có khả năng tự làm chủ cuộc đời mình. Và cảm giác vô định ấy được Huy Cận nhấn thêm một lần nữa bằng hai chữ “về đâu”. Nhưng câu thơ thứ nhất không chỉ là hình ảnh của những kiếp người vô định mà từng hàng bèo trôi dạt ấy dường như còn để tăng thêm cảm giác trống không ở những câu sau. Bởi người đọc sẽ có cảm tưởng khi bèo đã dạt hết rồi, nhìn lại mặt tràng giang, con người sẽ cảm thấy hoàn toàn trơ trọi với những chữ “không” nối tiếp nhau cứ dội lên mãi trong câu thứ hai và thứ ba :
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Chữ “không đò” được hiệp âm với chữ “mênh mông” ở trước, chữ “không cầu” lại được láy âm với câu trên, đặt ở ngay đầu câu, khiến cho cảm giác trơ trọi thể hiện rõ nhất ở khổ thứ ba này. Không có con đò đậu. không có cả một chiếc cầu tĩnh lặng, vô tri. Không có cả một chút bóng dáng con người mà thông thường người ta có thể mường tượng ra qua hình ảnh con đò.Như vậy hình ảnh “đò” được đặt trước vì động hơn. Nhưng đến chữ “chút niềm thân mật” thì hình ảnh con đò và cây cầu không chỉ là những hình ảnh thực mà còn là cảm giác về cuộc đời vắng tình người. Cuộc đời quá mênh mông, một chút niềm thân mật để nối hai bờ cũng không thể nào tìm ra, dù “thân mật” đã là mức độ tình cảm thấp nhất trong những mức độ tình cảm.
Và cảm giác của nhà thơ lại trở về với chiều dài và chiều rộng trong câu đề từ, khi nhà thơ viết câu thơ cuối :
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Cảm giác về “không” gặp lại ở “lặng lẽ”, không hình, không cả tiếng. Câu thơ gợi cho người đọc cảm nhận về dòng chảy qua hết bờ xanh lại đến bãi vàng, nhưng tuyệt đối âm thầm. Chúng ta lại nhận ra thêm ở đây một nỗi buồn sông nước.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chim nghiêng cánh nhỏ óng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Có thể nói rằng đây là khổ thơ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi ra liên tưởng về một câu thơ Đường. Cũng không có khổ thơ nào trong “Tràng giang” lại vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh trời chiều trên sông nước rõ ràng và gợi cảm như ở khổ bốn này.
Câu thơ thứ nhất đem đến cho ta cảm giác của một thiên nhiên vừa quen thuộc lại vừa lớn lao, kì vĩ.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc.
Chỉ bảy chữ thôi mà câu thơ đã mở ra trước mắt người đọc một bức tranh mà ở đó những làn mây dường như được đùn, đẩy từ nơi mà bầu trời tiếp liền cùng mặt nước, cứ chất ngất mãi lên phía của trời cao thành hình giống như ngọn núi, nhưng lại là núi bạc. Những đám mây kia đang phản quang những tia nắng của trời chiều, nhờ vậy mà ánh lên, loá lên, hình thành một khoảng không gian lớn rộng, gợi nên cảm giác trong sáng hiếm có ở bài thơ.
Vẫn nhìn lên bầu trời ấy, ở hai câu tiếp theo, nhà thơ điểm lên bức tranh bầu trời trên dòng tràng giang hình ảnh một cánh chim, một hình ảnh rất đặc trưng cho buổi chiều tà.
Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa.
Nhưng cánh chim ấy không khỏi làm cho những người yêu thơ nhớ đến một câu thơ của Vương Bột :
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
( tạm dịch nghĩa : ráng chiều đang sa xuống với con cò lẻ loi cùng bay ).
Song cánh chim chiều trong thơ Huy Cận không bình thản như thế thì nhà thơ nói đến “chim nghiêng cánh nhỏ”. Chi tiết ấy đủ làm người đọc nhận ra bóng chiều đang buông xuống. Bóng chiều vốn vô hình dường như giờ đây có thể được nhìn thấy như trong cảm giác về một vật thể hữu hình. Nhà thơ đã hữu hình hoá cái vô hình. Và như vậy chỉ bằng hai câu mà nhà thơ đem lại cho người đọc những xúc cảm thân thương, quen thuộc của quê hương, đất nước, để rồi từ cảnh quê trong hai câu đầu mà nói đến tình quê, đến nỗi nhớ quê nhà trong hai câu thơ cuối. Nỗi nhớ mênh mông như là những làn sóng đang dợn trên mặt sông và trải ra theo con nước về phía xa vời.
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
“Vời” được hiểu theo nghĩa là trông mãi về phía xa. Vì vậy ở câu thơ thứ ba này, nhà thơ đang nhìn mãi ra xa, tấm lòng cũng cứ lan theo mặt nước ra xa, và cũng rung rinh theo dòng nước như thế.Câu thơ đã mượn hình ảnh sóng nước tràng giang mà nói về nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy sâu nặng, thường trực trong lòng nhân vật trữ tình mà không cần được gợi ra bằng một làn khói hoàng hôn nào như trong thơ Thôi Hiệu :
Yên giang ba thượng sử nhân sầu
(Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )
Và như thế, nỗi nhớ, tình cảm quê hương cứ lai láng chảy trên khắp bề mặt của khổ thơ cuối cùng.
Không chỉ vậy, người đọc còn có thể nhận ra khổ thơ thứ tư là khổ duy nhất mà mỗi câu thơ đều gợi về một tứ Đường thi quen thuộc. Chính Huy Cận nhận rằng chữ “đùn” của câu thơ thứ nhất là ông học từ bản dịch “Thu hứng” của Nguyễn Công Trứ :
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Còn câu thơ thứ hai lại được viết dưới ảnh hưởng của những câu thơ Vương Bột :
Lạc hà dữ cô lộ tề phi.
Và hai câu thơ cuối cùng không khỏi làm người đọc nghĩ đến hai câu trong “Hoàng Hạc Lâu” (Thôi Hiệu)
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Điều đó có nghĩa là đến khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn của thi nhân không chỉ được giăng ra trên các chiều của không gian như ba khổ trước đó, mà nỗi buồn ấy còn được trải dài dằng dặc trên chiều của thời gian. Bởi vì mỗi câu thơ trong khổ đều được neo đậu vào những nỗi buồn dường như vĩnh hằng trong những câu thơ đã được viết ra nghìn năm trước đó. Và nhờ có khổ thơ này mà mối sầu của “Tràng giang” không chỉ là “nỗi sầu vạn lý” mà còn là “mối sầu vạn kỉ “. Cảm giác về “một chiếc linh hồn nhỏ, mang mang thiên cổ sầu “ ( Huy Cận ) được thể hiện rõ ở khổ thơ này hơn bất kì khổ thơ nào khác. Và như thế, nỗi buồn vũ trụ càng trở nên hoàn chỉnh hơn, nỗi khắc khoải không giang càng đầy đủ hơn. Kết thúc khổ thơ, nỗi buồn đầy đủ và trọn vẹn được mở ra trên ba chiều không gian và cả chiều thời gian, khiến cho “Tràng giang” càng thêm đậm đà phong vị Đường thi, hương vị thơ cổ điển ở ngay khổ cuối.
Tuy nhiên không vì thế mà có thể coi “Tràng giang” giống như là những vần thơ cổ điển. Huy Cận vẫn cứ hiện diện trong bài thơ như một nhà thơ mới, có thể nhận ra được từ cảm giác bơ vơ, bé nhỏ, một tâm trạng rất phổ biến của một “thời đại thi ca”. Bởi thế cánh chim chiều của Huy Cận mới yếu ớt, đáng thương đến thế, bởi đôi cánh nhỏ nhoi kia không đỡ nổi cả bóng chiều nhẹ nhàng, bảng lảng đến phải chao nghiêng. Nó khác nhiều với cánh cò bình thản trong thơ Vương Bột. Chất thơ mới ấy cũng thể hiện trong những rung động tinh tế khó nắm bắt trong cách nói “dợn dợn” ,làm nên cảm giác mơ hồ, lung linh không rõ rệt. Thêm vào đó, nhà thơ còn từ chối nguyên tắc “tức cảnh sinh tình” vốn đã là khuôn mẫu trong thơ cổ. Tình không cần phải được gợi ra từ khói hoàng hôn. Và với tất cả những lý do trên, khổ thơ cuối cùng của “Tràng giang” đã đạt đến những thành công có ý nghĩa về cả hai phương diện : nội dung cảm xúc lẫn hình thức văn chương.

BÀI THAM KHẢO SỐ 3
Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đưa ta đến những sông hồ , bờ bãi , biển cồn , núi cao , đèo dốc … những không gian trời nước mênh mông . Nghĩa là ta sẽ phải đối diện với cái vô cùng , vô tận của không gian , cái vô thuỷ vô chung của thời gian . Khi ấy , ngay cả những người vô tâm nhất cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn . Bởi người ta thấy rõ hơn bao giờ hết rằng con người thất là nhỏ nhoi , kiếp người chỉ là thoáng chốc . Đời người sao quá phù du ! Ta bỗng thấy mình như đang bơ vơ lưu lạc giữa cái mênh mông của đất trời , trôi nổi trong cái xa vắng rợn ngợp của dòng thời gian . Ta bỗng thấy chơi vơi giữa thế gian này !... Ấy là lúc có thể đọc thơ Huy Cận . Cái thế giới đang mở ra trước mắt ta kia chính là thế giới thơ Huy Cận , thế giới của Lửa thiêng , thế giới của Tràng giang . Thi sĩ đã cất lên giùm ta cái cảm xúc , cái nỗi niềm nhân thế đó.
Ngày trước , để bênh vực cho bài Tràng giang ( cũng là bênh vực cho Thơ mới!) người ta đã phải viện ra cái kỉ niệm của một chiến sĩ nào đó mà rằng : một người cách mạng như thế cũng rất yêu hai câu đầu của bài Tràng giang , vậy bài thơ này là lành mạnh , nỗi buồn ở đấy là trong sáng , chứ không có hại gì ! Rồi ngay cả Xuân Diệu cũng phải lập cả một hàng rào che quanh để bênh vực cho lòng yêu thiên nhiên của bài thơ . Không , lòng yêu thiên nhiên tạo vật tự nó là một giá trị , ngang hàng với những tình yêu khác . Lòng yêu thiên nhiên là một cảm xúc thuộc về nhân tính . Tự nó không cần bảo vệ!
“Tràng giang” không nhất thiết phải là sông Hồng , sông Cửu Long , đó có thể là Hoàng Hà , Hằng Hà , Vonga , Dương Tử… cũng được chứ sao . Tràng giang là một tạo vật thiên nhiên . Nó có thể được gợi ý , gợi tứ từ sông Hồng , từ một chỗ đứng xác định là bến Chèm . Nhưng khi đã thành hình tượng Tràng giang thì nó đã khước từ mọi địa danh, địa chỉ cụ thể để trở thành một tạo vật thiên nhiên phổ quát rồi . Lòng yêu của thi sĩ trong đó là một lòng yêu dành cho thiên nhiên tạo vật , một lòng yêu có ở hết thảy con người! Và đó chính là tầm vóc đáng có của bài thơ này !
Cảm hứng của bài thơ quả là cảm hứng không gian. Không gian được trải ra từ mặt sông lên tận chót vót đỉnh trời. Không gian được mở ra từ thẳm sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm linh con người . Ấy là một thế giời vừa được nhìn bằng sự chiêm nghiệm cổ điển , vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái Tôi hiện đại , rất đặc trưng cho Thơ mới . Có lẽ vì thế chăng mà Tràng giang hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu , lớn lao , vừa hoang sơ , vừa cổ kính . Trong đó thi sĩ hiện ra như một lữ thứ đơn độc , lạc loài .
Tràng giang là một không gian mênh mông vô biên . Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ dẫn vào vô biên rồi ( Xuân Diệu đã rất tinh khi so sánh chữ “trường” và “tràng” để thấy : “trường” chỉ có nghĩa là dài , còn “tràng” do “ang” là một âm mở rộng nên được cả dài lẫn rộng . Thế nghĩa là lớn , ứng với hình tượng một con sông lớn ) . Tràng giang gợi ra hình tượng một con sông chảy miên man giữa trời đất . Và đọc câu đề từ người đọc như thêm một lần nữa vén lên bức rèm , bước qua ngưỡng cửa để đi theo một hành lang mở thông vào vô biên : “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” . Nhưng dầu sao những hình ảnh sống động của thế giới ấy có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu :

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.

Có lẽ cái chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu như thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng , câu thứ hai tả những dòng nước trôi , những luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra , lan xa , gối lên nhau , xô đuổi nhau đến tận chân trời , thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song , rong ruổi mãi về cuối trời . Không gian vừa mở ra bề rộng , vừa vươn theo chiều dài . Đúng là nó có thấp thoáng âm hưởng của hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài Đăng cao nổi tiếng của Đỗ Phủ :

Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
(Ngàn cây bát ngát lá rụng xào xạc
Dòng sông dằng dặc nước cuộn cuộn trôi)

Cũng là đối xứng , nhưng Đỗ Phủ viết theo lối đối chọi , còn Huy Cận có cải biên, chỉ dùng tương xứng thôi. Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả , trong khi tác giả Đăng cao đặt ở giữa câu , thì tác giả Tràng giang lại đẩy xuống cuối câu . Nhờ thế mà hai từ láy nguyên “điệp điệp” và “song song” tạo ra được dư ba . Nghĩa là lời thơ đã ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội mãi vào vô biên . Dòng sông lớn mang trong lòng nỗi buồn lớn !
Suốt dọc bài thơ , Huy Cận còn dày công khắc hoạ vẻ mênh mông vô biên bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật nữa . Vừa dùng cái lớn lao để gợi sự mênh mông , vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng . Ấy là hàng trăm ngã sông , những cồn đất , những bờ xanh , bãi vàng , lớp lớp mây cao đùn núi bạc , ấy là một cành củi khô , một bóng chim nhỏ … Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của Tràng giang đã đạt đến tận cùng là ở hai câu này :

Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu .

Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao . Câu dưới là sự vô biên về cả bề rộng và chiều dài . Có một khoảng không gian đang gĩan nở ra trong cụm từ “nắng xuống trời lên” . Hai động từ ngược hướng “lên” và “xuống” đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt . Nắng xuống đến đâu , trời lên đến đó. Và nó được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót” . Có cái gì như phi lý! Có lẽ không chịu được sự phi lý mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót vót” để dễ hình dung hơn . Tiếc rằng , chính “sâu” mới là sự xuất thần của hồn thơ . Đấy không phài là sự lạ hoá ngôn từ . Nếu có thì trước hết là sự lạ hoá trong cách nhìn , trong cảm giác . Ánh mắt tác giả không dừng lại ở đỉnh trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao . Mà nó như xuyên vào đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu. Song , dầu sao , đây vẫn là chiều sâu của cái nhìn lên . Cho nên , mới là “sâu chót vót” .Chót vót vốn là một từ láy độc quyền của chiều cao , ở đây bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ . Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất . Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu thì trời sẽ sâu tới đó , mỗi lúc một chót vót hơn . Vừa tương xứng , vừa hô ứng với câu trên , câu thứ hai mở ra bát ngát , tít tắp . Câu thơ được viết giản dị , không chữ nào lạ , ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiều kích của Tràng giang , thế thôi ! Vậy mà thấy động . Các trạng thái tĩnh , các tĩnh từ dường như “cựa quậy” đòi động từ hoá . Trong áp lực của cái nhìn xa hút , “sông dài (ra) trời rộng (thêm) bến cô liêu (đi)” vậy! Thế mới lạ , không có chữ nào lạ hoá , mà vẫn mới lạ . Thế mới biết chính cảm xúc mới lạ mới làm nên cái mới lạ chân chính cho nghệ thuật .
Là một người thuộc lớp Tây học , nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi . Nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường . Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả các trạng thái “tĩnh” của thế giới . Có lẽ vì Tríêt học nơi đây đã quan niệm “tĩnh” là gốc của “động” , “tĩnh” là cội nguồn của thế giới . Cùng với nó , “tĩnh tại” và “thanh vắng” cũng trở thành tiêu chuẩn mỹ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái “tĩnh vắng mênh mông” trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không - một hư không chứa đầy âm nhạc , chứ không phải hư không trống rỗng . Huy Cận cũng tái tạo như thế , nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn . Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại . Còn sự trống vắng của Tràng giang được cảm nhận bằng nỗi cô đơn , bơ vơ . Có lẽ vì thế mà Tràng giang còn là một thế giới quạnh hiu , cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên , trống trải , cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông . Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng .
Đúng ra , con người có thoáng hiện ra trong hình bóng chiếc thuyền ở đầu bài thơ. Một con thuyền “xuôi mái” , thụ động buông trôi trên dòng nước luân lạc. Và nó cũng chỉ hiện ra thoáng chốc . Rồi sau đó nép mình vào bờ bãi nào mà mất hút trên sông nước, trả lại không gian cho sự ngự trị của muôn ngả sông , nghìn luồng sóng :

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
.
Cố tìm kiếm âm thanh cuộc sống , chỉ tìm âm thanh xoàng xĩnh thôi , dường như cũng không thấy, hoặc quá ư xa mờ , vô nghĩa :

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều!

Chữ “đâu” ở vị trí này có thể hiểu theo hai cách : vừa là phủ định từ với nghĩa là “đâu có” , vừa là từ chỉ nơi chốn với nghĩa là “đâu đó”. Theo nghĩa thứ nhất thì khớp với cách phủ định hoàn toàn sự có mặt của con người ở những câu sau . Còn theo nghĩa thứ hai thì có “tiếng làng xa…” và đó là âm thanh của cuộc sống đang tan rã , lịm tắt , mờ nhạt , thê lương . Một đằng đã vắng bóng , một đằng đang vắng bóng . Và đằng nào thì cũng quạnh quẽ , cô liêu.
Những phương tiện giao lưu chứng tỏ sự có mặt của con người cũng không hề có:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Và sự phủ định cuối cùng “không khói hoàng hôn…” . Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng cổ điển của “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén . Ngày vắng xem hoa bợ cây” ( Nguyễn Trãi) , “Lác đác bên sông chợ mấy nhà” ( Bà huyện Thanh Quan ) , hay “ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” ( Nguyễn Khuyến) nữa . Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ . Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế ! Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo . Trơ trọi cô đơn đến tuyệt đối . Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên . Đứng trước cảnh thế này , hơn nghìn năm trước , Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê :

Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
( Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai )

Có lẽ đó chỉ là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ . Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ . Nỗi nhớ của Huy Cận là thường trực, có cần đến thứ khói nào để làm duyên cớ đâu ! Nhớ nhà như là để vượt thoát , để trốn chạy khỏi nỗi cô đơn cổ hữu mà thôi:

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà .

Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác : tiếng sóng của lòng quê ! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất ?
Đứng trước dòng sông lớn , ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn , trường cửu . Nghìn năm trước khi chưa có ta nó vẫn chảy thế này . Nghìn năm sau , khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này , nó vẫn chảy thế kia . Tràng giang vẫn điềm nhiên , dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người . Sự lặng lẽ cuả tràng giang là miên viễn . Và hình như trong bài thơ , Huy Cận đã thâu tóm được nhịp chảy trôi miên viễn ấy rồi thể hiện một cách tinh vi trong âm hưởng chảy trôi thao thiết của ngôn từ . Những từ láy nằm rải trong chiều dài bài thơ , nhất là láy nguyên : điệp điệp , song song , lớp lớp , dợn dợn …không chỉ gợi được sự đường bệ , mà còn gợi được nhịp triền miên . Những cặp câu tương xứng như trùng lặp , nối tiếp , đuổi nhau không ngừng nghỉ : “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp // Con thuyền xuôi mái nước song song”. Các vế câu vừa cắt rời , vừa kết nối liên tiếp như một chuỗi dài tạo ra nhịp chảy trôi , rong ruổi , miên man : “Nắng xuống / trời lên / sâu chót vót . Sông dài / trời rộng / bến cô liêu” . Rồi những từ , cụm từ chỉ sự trùng điệp , nối tiếp ở cuối các câu : “hàng nối hàng” , “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” … tất cả những yếu tố ngôn từ ấy như những bè khác nhau , kết lại với nhau , phụ hoạ lẫn nhau , tạo thành một âm hưởng trôi xuôi vô tận miên viễn cứ ngầm chảy trong lòng bài thơ này khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt : có một dòngTràng giang thầm chảy trong âm điệu. Và ta như nghe thấy dòng Tràng giang không chỉ chảy trong không gian , mà còn chảy trong thời gian - từ thuở khai thiên lập địa , chảy miết qua các thời đại mà về đây ! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang ?
Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xoá được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này : mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng Tràng giang kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới lớp lớp mây cao đùn núi bạc đó ?... Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ ? Mà dường như cũng là của một người già ? Bởi vì Tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng ?

BÀI THAM KHẢO SỐ 4
Mở đầu bài thơ đã là dòng sông, mặt nước, lòng người. Tạo vật với tâm tình cứ xen lẫn vào nhau làm cho câu thơ có sức gợi hơn là tả:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

"Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" - bài thơ là cả một cảnh lớn - tràng giang, và một tấm lòng rộng mênh mang cùng "trời rộng sông dài" ấy. Câu thơ thứ nhất, bốn chữ đầu là tả, ba chữ sau đã là gợi. Tả và gợi cứ xen vào nhau. "Con thuyền xuôi mái nước song song" là hiện thực, là bức tranh trước mắt. Đến "Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả" thì không còn là bức tranh ấy nữa, mà đã là tương lai, là nghĩ suy, là chia ly và tâm tình. Dòng Tràng giang trở thành dòng thời gian ấy, mọi cái đều buông trôi, thụ động: "Củi một cành khô lạc mấy dòng" và "Con thuyền xuôi mái" - mọi cái đều dẫn đến chia ly: "Thuyền về nước lại".
Bức tranh thiên nhiên có tràng giang, sóng nước, con thuyền gợi không khí trang nghiêm cổ kính. Bút pháp cũng là bút pháp của thơ cổ: thiên nhiên rộng rãi khoáng đạt được điểm bằng vài nét chấm phá. Nhưng chấm phá bằng chi tiết kỹ và tinh quá. Đến như "củi một cành khô" cũng được đưa vào thơ thì hơi thơ đã mất đi nhiều âm điệu cổ điển. Cái buông trôi, thụ động của hình ảnh "Con thuyền xuôi mái nước song song" bị đẩy đến mức tuyệt vọng hơn nữa, thành cái nổi trôi, bất định của một cành củi khô không đáng kể gì giữa sông nước tràng giang mênh mông, rợn ngợp.

Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.

Câu trên tả cái có. Câu dưới tả cái không. Cồn nhỏ chỉ lơ thơ, gió chỉ đìu hiu. Có đấy mà không đáng kể gì. Tất cả đều chỉ là không: không tiếng làng xa, không một chuyến đò, không cầu gợi chút niềm thân mật. Những câu thơ như thế, đâu phải để tả những "lơ thơ cồn



Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận EmptySat Mar 20, 2010 2:35 pm

nhox_eviL
nhox_eviL

60%

Nam
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 126
Points Points : 5998
Birthday Birthday : 25/04/1993
Join date Join date : 13/03/2010
Đến từ Đến từ : HCM city

Bài gửiTiêu đề: Re: Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận

hơi dài một tý nên cố đọc đi



Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận EmptySat Mar 20, 2010 4:43 pm

Mr.NoobBy
Mr.NoobBy

Administrators

https://bubbles.all-up.com
Nam
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 77
Points Points : 5729
Birthday Birthday : 10/07/1993
Join date Join date : 12/03/2010
Đến từ Đến từ : TP HCM

Bài gửiTiêu đề: Re: Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận

good good +1 cho chú em big grin



Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận EmptySat Mar 20, 2010 5:21 pm

heonaj1230
heonaj1230

Mod

Nam
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 111
Points Points : 5752
Join date Join date : 14/03/2010

Bài gửiTiêu đề: Re: Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận

ax , thằng nào cũng đọc thì bà cô sao chấm



Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận EmptySat Mar 20, 2010 6:23 pm

baoanh1993
baoanh1993

5%

Nam
Tổng số bài gửi Tổng số bài gửi : 19
Points Points : 5432
Birthday Birthday : 12/11/1993
Join date Join date : 17/03/2010
Đến từ Đến từ : tu dau ke cha tao

Bài gửiTiêu đề: Re: Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận

lấy y la dc uj`.... bộ mày tính copy 100% ak... big grin



Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận Empty

Sponsored content

Bài gửiTiêu đề: Re: Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận



 

Dàn ý : Phân tích bài thơ Tràng Giang of Huy Cận

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Welcome to you!
««♥»»--B1-FORUM.CO.CC--««♥»»
-‘๑’- Chào mừng bạn đến với diễn đàn của lớp 11B1 -‘๑’-
-‘๑’- Khóa 2009-2011 trường THPT Gò Vấp !!! -‘๑’-
-‘๑’- Chúc bạn có những phút giây vui vẻ ! -‘๑’-

-‘๑’-» Nếu đã có tài khoản, đăng nhập tại đây:«-‘๑’-
Username:
Password:
Remember me?

»»» Chưa có tài khoản? Nhấn vào đây để đăng ký «««
Sử dụng mã nguồn PhpBB2
© 2009 - 2010 Nhóm phát triển website và thành viên .
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.


Forum Blogtruyen
Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Cookies | Thảo luận mới nhất